Chữ Nôm VN

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2009

Chữ Nôm VN hay là cách viết chữ Việt theo phong cách chữ Hán





LỜI NGỎ



" Lời quê chắp nhặt dông dài
mua vui cũng được một vài trống canh"
Nguyễn Du

Trong cuộc đời có nhiều trò chơi,có những trò chơi không lành mạnh,nhưng cũng có không ít trò chơi bổ ích và lý thú.Có những trò chơi chỉ kéo dài đôi ba phút hay chỉ vài ngày,nhưng cũng có những trò chơi trở thànhnhữngcuộc chơi hết cả đời người,thậm chí có khi còn hơn thế nữa.Đây có thể cũng là một trò chơi.


Sở dĩ tôi tạo ra chữ Nôm mới này là vì nhân một hôm xem truyền hình,thấy một số người Nhật đi biểu tình,trong đó những biểu ngữ họ viết đều bằng chữ Hán.Bỗng dưng tôi nghĩ người Nhật có đến bốn cách viết,trong đó cách viết Hán tự (Kanji)vẫn được giảng dạy tại nhà trường và vẫn sử dụng trên thực tế vậy tại sao chúng ta không làm được chuyện đó.Nghĩ như thế nhưng tôi nhận thức được rằng ở nước ta đã từng dùng chữ Hán,Nôm và kết quả là không thể đại chúng hóa được,do đó việc sử dụng hoàn toàn Hán Nôm là điều không thể. Sau đó tôi lại nghĩ tại sao mình không dùng cách ghép âm,bằng cách dùng chính các ký tự của chữ Hán để gán đặt cho chúng là những âm vị,rồi kết hợp lại thành tiếng(âm tiết). Kết quả là cách kí âm mới chữ Việt ra đời,ở đây tôi tạm gọi là chữ NômVN.


Sau khi hoàn thành,có người đặt câu hỏi:


1 - Tại sao lại phải làm ra thêm một loại chữ viết nữa trong khi chúng ta đang có một loại chữ dễ học, dễ đọc, dễ viết?.
2 - Chữ Nôm VN này xem ra cũng không quan hệ gì với chữ Nôm xưa vậy học để làm gì? .
3 - Phải mất bao lâu để học chữ Nôm VN này? Có lợi gì khi học loại chữ mới này?.

Xin thưa:


1- Rõ ràng chữ quốc ngữ hiện nay là một công cụ hết sức hữu hiệu trong việc truyền bá kiến thức cho cộng đồng.Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là tạo nên một khoảng cách giữa hiện tại với quá khứ của dân tộc trong vấn đề chữ viết,khoảng cách này xem ra càng ngày càng lớn.Thử hỏi có bao nhiêu người ở nước ta hiện nay viết được bài thơ Thần - Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nước ta như nguyên bản,hay chí ít cũng viết,đọc và giải thích được các chữ "Vạn thế sư biểu"hay"Khuê văn các"tại Văn Miếu Quốc Tử Giám chứ chưa nói đến các câu đối,mà đây là trường Đại học đầu tiên,nơi tiêu biểu cho văn hóa nước Việt,là niềm tự hào của dân tộc Đại Việt.(Nơi thường được giới thiệu với quốc khách,các nguyên thủ quốc gia). Làm sao ta tự hào cho được khi đa số không đọc được tối thiểu những gì mà ta cho là niềm hảnh diện của dân tộc.Tất nhiên điều đó không phải lỗi tại ai,mà tại lịch sử chữ viết đã rẽ sang một lối khác,một lối đi có quá ít cơ hội để trở về. Do đó việc làm sao quay trở về với chữ viết mà ông cha ta đã từng viết và vẫn còn hiện hữu trong lòng dân tộc là một câu hỏi lớn.Chỉ khi nào làm được điều đó,chúng ta mới nhìn về quá khứ với một niềm tự hào dân tộc trọn vẹn.Tất nhiên không có gì mới mà không có khó khăn,nhưng muốn có một thành tựu nhất định thì phải dụng công nhất định. Trong hướng suy nghĩ đó chữ Nôm VN này ra đời.


2- Như đã nói "đây chỉ là một cuộc chơi" mục đích của việc đưa ra chữ NômVN này là nhằm tạo điều kiện cho chữ Hán Việt,vốn rất nhiều trong tiếng Việt của chúng ta xuất hiện như hình thức vốn có của nó. Chữ Nôm VN này có chức năng như phần vỏ ngoài bọc đường của một viên thuốc,dĩ nhiên nó không phải là thành phần chủ yếu để giúp ta trị căn bịnh,nhưng nếu không có nó thì thật khó mà nuốt được thuốc dẫu rằng người bịnh thừa biết rằng đó là thứ mà họ cần để chửa căn bịnh trầm kha. Bởi vì tôi cho rằng khi ta học một tiếng nào đó,mục đích đầu tiên là để giao tiếp hoặc nói hay viết,nếu không như thế thì cho dù thứ tiếng ấy có sâu xa,gắn bó với lịch sử như thế nào chúng ta cũng không thể nào bỏ công sức ra để học được. Trong trường hợp này chữ Nôm xưa và chữ Hán Việt là một minh chứng. Trong tiếng Việt từ Hán Việt chiếm đến 70%, đây là một kho tàng vô giá đối với người Việt,người Việt ngày nay sử dụng nó trên mọi lãnh vực,họ nói được,nghe được,hiểu được,chỉ có con chữ là họ không viết được mà thôi(ở đây nói số đông). Như ta biết một từ gồm:chức năng ngữ pháp,hình vị,âm vị và ngữ nghĩa. Như vậy người Việt nói và nghe được âm,hiểu được nghĩa thì xem như đã đi hết 3/4 đoạn đường,chỉ còn 1/4 đoạn đường là viết con chữ (hình vị), nhưng đành phải bỏ.Vì sao như vậy? Câu trả lời là: Vì muốn sử dụng được chữ Hán Việt phải dùng chữ Nôm để viết các từ thuần Việt hay các từ Hán Việt đã Việt hoá,mà chỉ riêng việc học chữ Hán thôi cũng quá khó rồi nói chi học chữ Nôm. Còn nếu chỉ học chữ Hán thôi thì học rồi chẳng biết sử dụng vào đâu,hay chỉ thỉnh thoảng mới đọc đâu đó vài ba chữ,vì vậy việc bỏ ra nhiều công sức để học một loại chữ như vậy là điều quá khó đối với quảng đại quần chúng. Chính vì vậy chữ Nôm VN này được tạo ra nhằm mục đích làm cho người học có thể viết được tất cả các chữ thuần Việt hay các từ Hán Việt đã Việt hoá theo phong cách chữ Hán một cách dễ dàng,từ đó tạo điều kiện cho các từ Hán Việt xuất hiện theo đúng hình thức mà cha ông ta đã sử dụng tự ngày xưa. Tôi nghĩ rằng bất cứ chữ viết nào nếu được đại chúng hóa thì việc học chữ ấy hết sức thuận tiện. Chữ Nôm xưa kia cũng như chữ Hán,phải nhớ từng chữ,nếu quên thì không có cách gì thay thế được. Ngược lại chữ Nôm VN này dễ nhớ,do đó khi ta quên một từ Hán Việt nào đó ta có thể viết chữ Nôm VN thay thế. Chữ Nôm VN này hoàn toàn không giống chữ Nôm xưa,nhưng nó có thể kết hợp với hình thức chữ Hán Việt trong chữ viết, đây chính là cách học chữ Hán một cách tự nhiên. Như thế là học mà chơi, mà chơi cũng là học.


3-Với 41 kí tự cùng một số quy tắc viết,bất cứ ai cũng có thể học nó trong vài ngày,thậm chí đối với vài người chỉ mất vài giờ. Cái lợi của việc học và viết chữ Nôm VN là có thể áp dụng các chữ Hán Việt trong Tiếng Việt của chúng ta bằng chính hình thức chữ Hán,nếu bất cứ ai viết và hiểu được 40% vốn từ Hán Việt thì xem như ta đã mở ra một cánh cửa để tiếp xúc với quá khứ của dân tộc qua chữ viết. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tiếng Hoa,Nhật(Kanji),Hàn(Hanja). Vì tiếng Nhật và Hàn cũng như tiếng Việt, trên 50% là Hán Tự,có chữ viết,nghĩa giống Tiếng Việt,kể cả phát âm rất nhiều tiếng gần với tiếng Việt. Đó là cái lợi của việc dùng chữ Nôm VN này.


4-Trong trường hợp ta viết các từ Hán Việt thì tôi đề nghị chỉ nên dùng các từ ghép mà thôi,nếu ta sử dụng được 500 từ ghép có chọn lọc,có nghĩa là ta biết tối thiểu 700 từ Hán do đó việc nghiên cứu vào kho Hán Nôm xưa là điều nằm trong tầm tay.
Cuối cùng tôi nhận thức được rằng đây là một việc làm quá ư táo bạo và khó khăn,trong khi năng lực còn nhiều bất cập,nhất là lảnh vực ngôn ngữ học,do đó kính mong các vị thức giả vui lòng lượng thứ cho nếu như chữ NômVN này làm phiền lòng quý vị.


Đà lạt ngày 21 tháng 12 năm 2008






Viên Như


I - LÍ DO TẠO CHỮ NÔM VN


Tiếng Việt từ ngàn xưa đã phát triển một cách mạnh mẽ,có quy luật và tính cộng đồng rất cao,điều nay có thể chứng minh qua quá trình lịch sử của dân tộc ta.Mặc dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc,hệ thống giáo dục của nước ta phải dùng chữ Hán để làm quốc tự,tất cả văn chương có tính bác học đều được ghi chép bằng loại chữ này,tất nhiên là các tài liệu,thư tịch của Việt Nam cũng không ngoại lệ; thậm chí ngay cả vào những lúc nước nhà độc lập lâu dài nhất trong lịch sử như thời Lí,Trần chúng ta cũng dùng chữ Hán làm quốc tự.Thế mà trên thực tế người Việt vẫn nói tiếngViệt,không những thế mà người Việt còn Việt hóa các âm Hán,sử dụng theo cách riêng của mình,mà đáng lí ra điều này phải xảy ra ngược lại mới phải;có nghĩa là chúng ta phải bị Hán hóa tiếng nói của chúng ta.Bởi vì chúng ta đã dùng chữ Hán làm chữ viết chính cho quốc gia,thì việc đồng hóa tiếng nói là điều có thể,nhất là đối với một nước có một nền văn hóa,chính trị và quân sự lớn mạnh như nước Trung Hoa,một nền văn hóa đã làm ảnh hưởng sâu đậm đối với những nước mà họ đã từng xâm chiếm.Điều ấy chứng minh cho thấy rõ ràng tiếng Việt đã phát triển có tính cộng đồng rất cao,tất nhiên một tiếng nói phát triển như thế thì chắc chắn tự nó tất phải có những quy luật chặt chẽ.


Khi đã biết như vậy thì vấn đề mà chúng ta cần phải đặt ra là:


Với một tiếng nói phát triển bền vững như vậy,tại sao không có chữ viết riêng cho mình?Liệu có phải chữ Hán đã trói buộc ông cha ta đến nỗi mất đi niềm tự hào dân tộc hay không?Hay những tiền nhân xưa kia cũng đã từng muốn tìm kiếm một chữ viết riêng cho nước mình nhưng chưa hoàn thành,hay đã hoàn thành mà vì một lí do nào đó không thể truyền bá một cách rộng rãi được?.


Câu trả lời là cha ông ta luôn có niềm tự hào dân tộc,lịch sử chống ngoại xâm của chúng ta chứng minh điều đó,tất nhiên lòng tự hào dân tộc đó cũng được thể hiện qua việc tìm kiếm chữ viết cho riêng mình mà kết quả là chữ Nôm đã ra đời,không những chỉ ra đời để thỏa mãn trong giới Nho sĩ thôi,mà người Việt còn muốn dùng nó như là quốc tự,để không những thoát ra khỏi những ràng buộc về chính trị và quân sự mà cả về văn hóa nữa.Điều này đã được thể hiện khi Hồ Quý Li lên ngôi ra Chiếu Chỉ lấy chữ Nôm làm quốc tự.


Như vậy là cuối cùng sự giao thoa Văn hoá giữa Việt Nam và Trung Hoa trải qua hàng ngàn năm đã có kết quả,đứa con tinh thần đã ra đời,đứa con này do chính người Việt sinh ra và nuôi lớn,nhưng điều không may mắn là chữ Nôm này cũng chỉ lớn lên trong giới Nho sĩ.Bởi vì nó cũng được thành lập trên nguyên tắc Lục thư của chữ Hán (thậm chí còn hơn Lục thư nữa) cho nên tính đại chúng của nó không cao. Bởi vì muốn học được chữ Nôm người ta phải học chữ Hán,mà chỉ riêng việc học chữ Hán thôi thì đã quá khó đối với đại đa số quần chúng rồi nói chi đến thêm chữ Nôm.Như vậy,tuy có chữ viết riêng rồi,nhưng việc đem chữ viết ấy đến cho mọi người thì hầu như vẫn còn dậm chân tại chỗ.Chính vì vậy ngày nay chữ Nôm đã không đóng một vai trò tích cực trong thật tế.Tuy nhiên điều mà chúng ta cần phải ghi nhận và trân trọng là ông cha chúng ta đã từng có hoài bão muốn có một chữ viết riêng cho đất nước mình và đã thực hiện được hoài bão đó;hay nói khác hơn là muốn có một nền độc lập hoàn toàn trên mọi mặt quân sự,chính trị cũng như văn hóa. Ngày nay tuy ta không còn viết theo hình thức đó nữa,nhưng chữ Nôm là một di sản văn hóa hết sức quý giá đối với dân tộc ta.Tôi nhận thức được rằng việc tạo nên một chữ viết khác trong khi đang có một loại chữ thông dụng như hiện nay là điều không dễ được xã hội chấp nhận,nhưng với mong muốn thực hiện được những hoài bão của tiền nhân xưa kia nên tôi tạo ra chữ Nôm VN này, và xem đây như một nén nhang thắp lên để hướng về quá khứ.Đó chính là lí do tôi tạo ra chữ Nôm VN này.


II - MỤC ĐÍCH TẠO CHỮ NÔM VN


Mặc dầu đã có chữ Nôm,nhưng rõ ràng loại chữ này vẫn chưa làm thỏa mãn và đáp ứng được mong muốn đương thời,do đó hoài bão này luôn theo đuổi người Việt.Chính vì vậy khi người Tây đến,rất sớm,họ đã đưa ra một cách kí âm tiếng Việt theo phương pháp của tây phương. Đứa con tinh thần này do người Tây sinh ra,nhưng nó đã được nuôi nấng bởi chính người Việt,đứa con này đã khôn lớn và đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với đất nước Việt Nam đến ngày nay,vì nó đáp ứng được những mong muốn của người Việt.Tuy nhiên trong tiềm thức của người Việt,hình thức chữ Hán vẫn còn in đậm,vì con chữ này đã đi cùng với người Việt suốt hàng ngàn năm,nhất là khi muốn đưa con chữ vào trang trí ở những nơi tôn nghiêm,chùa chiền,miếu mạo,đình làng thì chữ quốc ngữ hiện nay khó mà hòa nhập với chữ Hán,chính vì vậy người Việt vẫn tiếp tục tìm kiếm,kết quả là các loại chữ viết theo mẫu tự La Tinh nhưng sắp xếp theo kiểu chữ Hán ra đời, hoặc theo hình vuông,hoặc hình tròn hay các hình thức khác,miễn sao khi đưa vào trang trí các nơi tôn nghiêm người ta có được cảm giác có một sự cổ kính,hay nói khác hơn là có sự hòa điệu giữa quá khứ và hiện tại.Tuy nhiên đây cũng chỉ là một kiểu chữ viết,chứ không phải là một loại chữ mới. Như vậy cái hoài bão có được một chữ viết riêng lấy chất liệu từ chữ Hán,có tính đại chúng cao vẫn còn đó.Kế thừa những khát vọng đó của tiền nhân,tôi đề nghị ở đây một cách viết mới chữ Việt,hay một cách kí âm mới tiếng Việt mà tôi tạm gọi là chữ Nôm VN,lấy chất liệu từ chữ Hán.Sở dĩ tôi làm như vậy là nhằm tạo điều kiện cho các từ Hán Việt xuất hiện như ông cha ta ngày xưa đã từng viết,như thế chúng ta mới có cơ hội nhiều hơn trong việc tiếp xúc quá khứ trong vấn đề chữ viết.Đó là mục đích của việc tạo ra chữ Nôm VN này.


III - PHƯƠNG PHÁP TẠO CHỮ NÔM VN


Từ xưa tới nay chữ viết của nước ta viết bằng :


1- Hoàn toàn bằng chữ Hán: Tài liệu quốc gia,thư tịch bang giao,ghi chép lịch sử,văn học nghệ thuật.
2- Chữ Nôm: Chủ yếu trong việc nghi lễ,thơ,phú.
3- Chữ La Tinh: Quốc ngữ hiện nay. Được sử dụng trên mọi mặt của xã hội.

Như vậy chúng ta thấy :


A - Chữ Hán và Nôm :(Ở đây nói hình vị) Ngày nay không còn được sử dụng chính thức ở nước ta nữa,mặc dầu những con chữ đó là một phần rất quan trọng trong nền văn hóa của chúng ta.Nhược điểm của nó chính là khó nhớ,tính liên tưởng không cao.
B- Chữ La Tinh :Dễ học,dễ đọc,khắc phục được nhược điểm trên của chữ Hán,Nôm nên dễ đại chúng hóa,kết quả là trở thành quốc ngữ của nước ta,nhưng nó cũng có nhược điểm là chia cách quá khứ với hiện tại của dân tộc trong vấn đề chữ viết,mà chữ viết chính là công cụ chuyên chở văn hóa,nên sự chia cách này có ảnh hưởng tiêu cực nhất định tới văn hóa nước ta.


Từ những nhận định trên,chữ Nôm VN được tạo ra theo hướng vừa hiện đại vừa truyền thống;hay nói khác hơn là kết hợp hài hòa giữa quá khứ và hiện tại.


Hiện đại : Về phần kết hợp ngữ âm vẫn không khác gì hiện nay.


a- Vẫn sử dụng phương thức phát âm theo những kí hiệu và đánh vần theo một trật tự nhất định.
b- Chỉ mất rất ít thời gian để học các kí tự cũng như cách ghép các âm,vần thành tiếng.
c- Vẫn có thể ghi lại các âm Hán Việt như mẫu tự La Tinh đang làm.

Truyền thống: Hình vị theo kiểu chữ Hán.


a -Vẫn giữ được hình thức quen thuộc của chữ Hán để có tính phương đông.
b -Tạo điều kiện để viết chữ Hán Việt như hình thức vốn có của nó,từ đó kích thích người học cần học chữ Hán.Vì ngôn ngữ Việt càng cao thì từ Hán Việt càng nhiều.
c -Làm cho người học càng lúc càng thấy gần gủi với những gì mà ông cha ta đã lưu lại qua chữ viết.


IV - CHẤT LIỆU TẠO CHỮ NÔM VN


Các kí tự (hình vị)đều sử dụng chất liệu chữ Hán,ngoài những mục đích đã nêu trên nó còn tạo nền tảng cho việc soạn thảo chữ Hành, Thảo, Triện, Lệ ( chỉ mang tính hình thức).
Với những lí do,mục đích,phương pháp và chất liệu như đã nêu trên,tôi đề nghị ở đây một chữ Nôm VN với 41 kí tự,các chữ số,các kí hiệu dấu,ngày,tháng,năm và các quy tắc ghép âm vị thành âm tiết.Với 41 kí tự này ta có thể viết tất cả chữ trong tiếng Việt hiện nay theo phong cách chữ Hán.


V - CƠ SỞ NGỮ ÂM ĐỂ TẠO CHỮ NÔM VN


Ngữ âm của một Tiếng trong tiếng Việt gồm các âm như sau:


1 -Phụ âm đầu(Fâđ): [(*)Phụ âm đầu câm-b-ckq-d-đ-g-h-m-n-l-r-s-t-v-x-gi(z)-ch-kh-ng-nh-th-tr-ph].
2 - Nguyên âm giữa(Ngâ):[a-ă-â-o-ô-ơ-u-ư-i [+y]-e-ê và tất cả các nguyên âm phức khác].
3 - Phụ âm cuối(Fâđ)[(*)phụ âm câm-c-m-n-t-p-ch-ng-nh].
4 - Các thanh dấu(T): [bình[b]-sắc[s]-huyền[h]-nặng[n]- hỏi[h?]ngã[ng].


(*) Phụ âm câm ở đây chỉ các vị trí phụ âm không phát âm khi nói và không có hình vị khi viết theo mẫu tự La Tinh, trong chữ Nôm VN các phụ âm này không phát âm khi nói, nhưng có hình vị khi viết.


Từ cách hiểu này ta có các cấu tạo một Tiếng trong Tiếng Việt như sau:


1 - [1+2+3+4]=[Fâđ+Ngâ+Fâc+T]
Ví dụ : dũng [d + u + ng + ng]



2 - [1+2+3c+4]=[Fâđ+Ngâ+Fâc câm +T]
Ví dụ : nó+ [ n + o + Fâc câm + s]


3 - [1c+2+3+4]=[Fâđ câm +Ngâ+Fâc+T]
Ví dụ : +anh [Fâđ câm + a +nh +b]



4 - [1c+2+3c+4]=[Fâđ câm+Ngâ+Fâc câm +T]
Ví dụ : +ọ+ [Fâđ câm + o + Fâc câm +n]


Trong chữ Nôm VN này tôi chỉ đưa ra các yếu tố cấu tạo tiếng và 4 cách cấu tạo tiếng nhằm phục vụ cho việc viết chữ Nôm VN,các phần vần, đánh vần thành tiếng thì cũng như cách mà học sinh học tại trường.



(*)
-Trong chữ Nôm VN này,do cho rằng các phụ âm[c,k,q]đều phát âm là /k/ vì vậy ở đây chỉ sử dụng một kí tự chung cho ba phụ âm này.
- Tương tự như thế đối với các phụ âm[ngh -ng] [gh-g]
.- Riêng đối với [d - gi(z)] thì cần thêm sự góp ý.


Đối với phụ âm [gi] phát âm là /z/ như trong [giản] đọc là /zản/ hay [giải] đọc là /zải/ do đó ở đây dùng [z] thay[gi]. Dùng như thế khi ta viết âm/zì/ trong [cái gì] hay /zìn/trong [giữ gìn]mà không lầm lẩn khi viết [gì] đọc là/zì/ như ta viết hiện nay.Bởi vì /gi/=/z/ chỉ là phụ âm đầu,chưa đủ yếu tố hình thành một tiếng trong tiếng Việt.Vì một tiếng trong tiếng Việt tối thiểu là âm giữa (nguyên âm).


- Đối với thanh hỏi,ngã,ở đây tôi có đưa ra kí hiệu.Tuy nhiên theo tôi, nên bỏ bớt một thanh(ngã)vì nghĩa của từ đã được chỉ ra trong ngữ cảnh.


1 - Với tên chữ cái ta đọc bằng cách ghép âm đầu với vần ê. Phương thức này trước nay chỉ áp dụng cho một số tên chữ cái mà thôi. Bao gồm : b,c,d,đ,g,p,t,v. Số còn lại h,k,l,m,n,r,s,x đọc khác.
Ví dụ : b = b+ê, v = v+ê .2- Với âm chữ cái ta đọc bằng cách ghép âm đầu với vần ờ, phương thức này áp dụng cho tất cả âm chữ cái.
Ví dụ : t = t+ờ , m= m+ờ
3 - Như vậy đối với tên chữ cái,ngay trong 29 chữ cái đã có cách đọc không thống nhất.còn trước nay ta không xếp các chữ: ch,gh,gi,kh,ng,ngh,nh,qu,th,tr,ph như là chữ cái. Nhưng trên thực tế chúng là những chữ cái. Vì vậy khi gặp trường hợp các chữ này cần phải đọc tên chữ cái (letter name)thì không biết đọc sao.
Ví dụ : QU- NG ( Viết tắc từ Quảng Ngãi) TH- TH ( Viết tắc từ Thanh Thủy) ta phải đọc làm sao.Có thể do như vậy mà vấn đề A bờ cờ và A bê cê vẫn còn tồn tại.
4 - Vì những lí do trên, trong bảng chữ cái chữ nôm VN này tôi thống nhất cách đọc tên chữ cái như đề nghị trên.Đồng thời tôi cũng xếp các chữ ch,gi,gh,ng,ngh,nh,kh,ph,qu,th,tr là những chữ cái với đơn âm cố định.
Ví dụ: KH trước đây đọc là CA HÁT , hay TH đọc là TÊ HÁT, còn NGH thì ?. Nay trong chữ nôm VN này tôi đề nghị KH đọc là KHÊ, TH đọc THÊ , NG-NGH đọc là NGÊ hay nói khác hơn là áp dụng cách đọc tên chữ cái(trừ nguyên âm) bằng cách âm đầu + vần ê đối với tất cả tên chữ cái. Bởi vì ta đã có cách đọc thống nhất đối với âm chữ cái(trừ nguyên âm) là âm đầu + vần ờ,thì việc áp dụng âm đầu +vần ê cho cách đọc tên chữ cái cũng không gì lạ.VIII- PHÂN BIỆT KHI NÀO ĐỌC TÊN CHỮ CÁI (LETTER NAME) VÀ KHI NÀO ĐỌC ÂM CHỮ CÁI (LETTER SOUND) HAY NÓI KHÁC HƠN KHI NÀO ĐỌC A BỜ CỜ VÀ KHI NÀO ĐỌC A BÊ CÊ .1 - Vấn đề này đã được các nhà ngôn ngữ học trả lời nhiều,về lý thuyết thì thỏa đáng nhưng về thực tế thì có nhiều vấn đề nên vẫn còn bất cập.
Ví dụ : Chữ a, b, c. Mỗi chữ đều có 2 phần : tên chữ cái(letter name)và âm chữ cái(letter sound)
- Tên của chữ [a] là a, tên của chữ [b] là bê, tên của chữ [c] là cê(kê)
- Âm của chữ [a] là /a/, âm của chữ [b] là /bờ/, âm của chữ [c] là /cờ/ (kờ)
2 - Về lý thuyết thì như thế nhưng trên thực tế người học không dễ gì nhận ra được khi nào đọc tên chữ và khi nào là âm chữ nên lúng túng. Về vấn đề này tôi xin góp thêm í kiến như sau:
Khi ta đọc [b] là /bê/ có nghĩa là ta đang đọc một từ như : Nhà, cửa, xe. Từ [b] này có đầy đủ chức năng của một từ trong tiếng việc như : Từ loại (ở đây luôn luôn là danh từ), âm vị, hình vị, nghĩa.
Ở đây từ [b](bê) chức năng ngữ pháp là danh từ ,âm vị là /b/ hình vị là [b] và nghĩa được quy định bởi thực tế. Ví dụ : Khối B, ông B, anh B.
Từ cách hiểu này cho ta biết tất cả các chữ viết tắt luôn luôn làTỪ(ở đây là danh từ) như : UBND, UNDP, VTV do vậy phải đọc theo tên chữ (như vê tê vê). Có thể có người hỏi vậy tam giác a bê cê, hay a bờ cờ. Trả lời :Tất nhiên là a bê cê. Vì a ,b, c trong tam giác này là những danh từ,ở đây (thông thường) a là tên(danh từ) của góc đỉnh, b là tên(danh từ) của góc trái và c là tên (danh từ) của góc phải.4 - Đối với âm chữ cái như khi ta đọc a b c là a bờ cờ,thì những chữ này không phải là từ nên chúng không thuộc từ loại nào và không có nghĩa, chúng chỉ có âm vị và hình vị. Do đó không thể đọc các chữ viết tắt như VN,UNDP,NHCT bằng âm ờ (tờ,nờ)được.Vì VN,UNDP,NHCT là những chữ có nghĩa hay chúng là những danh từ.Tóm lại ta phải đọc tất cả các từ viết tắt với âm [chữ cái +ê] . Còn [chữ cái +ơ] chỉ dùng giảng dạy về âm vị học, chứ không bao giờ sử dụng như là một từ,do đó không bao giờ có từ nào viết tắt lại đọc như cách này [chữ cái + ờ].Trên đây chỉ là những đề nghị của cá nhân tôi, mong sự góp í của những người quan tâm.










X - THỂ HIỆN CHỮ NÔM VN




Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá,môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi,tiếng Việt ân tình!

Thơ Lưu Quang Vũ




Bướm bay vườn cải hoa vàng,
10 năm vườn xưa xanh tốt,
20 năm nắng rọi lều tranh,
Mẹ tôi gọi tôi về bên bếp nước rửa chân,
Hơ tay lên ánh lửa hồng,
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống.

Thơ Nhất Hạnh




TÌNH

Trăm năm còn lại chút tình mà thôi



Dù cho mây có che trăng
Trăng chưa hiện bởi chưa rằm đấy thôi.

Thơ Viên Như



NƯỚC VIỆT MẾN YÊU


XI - VIẾT CHÈN CHỮ HÁN




Nước Việt Nam là một nước tự do và độc lập.


Các từ "Việt Nam,tự do,độc lập"là từ Hán Việt.



Chính phủ vừa có công văn chỉ thị cho các ủy ban nhân dân tỉnh thành khẩn trương khắc phục hậu quả cơn bảo số 9.

Các từ "Chính phủ,công văn,chỉ thị, ủy ban nhân dân,tỉnh,thành,khẩn trương,khắc phục,hậu quả"là từ Hán Việt.



Vài suy nghĩ về bảng chữ cái tiếng Việt
và đề nghị cách viết chữ Việt không dấu
Theo các nghiên cứu về lị
ch sử chữ viết của người Việt gần đây cho rằng ngay từ thời Hồng Bàng nước ta đã có chữ viết,thứ chữ ngày nay gọi là chữ "Nòng nọc" được khắc trên trống đồng. Rồi thì chữ "khoa đẩu" cũng có từ thời nước Văn Lang nhưng rồi tất cả đã mất bóng vào lịch sử nhường bước cho chữ Hán,rồi từ chữ Hán người Việt cho ra đời chữ Nôm,đến khi những người phương tây sang,chữ viết của nước ta lại có thêm loại chữ mới. Loại chữ viết này không theo lối cũ là chữ biểu í mà theo cách biểu âm. Kể từ ngày có mặt trên nước Việt đến nay đã trên 300 năm,càng ngày loại chữ La Tinh này càng phổ biến,chúng càng phổ biến và quan trọng hơn khi vào năm 1920 người Pháp ra lệnh cấm dùng chữ Nôm.Từ đó chữ Việt - La Tinh xem như là quốc ngữ. Tất nhiên không phải những gì các vị cố đạo xưa kia đưa ra đều hợp lí cả,mà khuôn mặt chữ quốc ngữ ngày nay có được đoan trang như vậy là nhờ vào sự trang điểm của bao thế hệ người Việt. Tuy nhiên có một vấn đề là chữ Việt - La Tinh đã trở thành quốc ngữ trước khi nó được nghiên cứu một cách kĩ lưởng. Bởi vì song song với nhu cầu phổ biến kiến thức đến với mọi người qua việc xử dụng con chữ,(đây là thời kì mà ai cũng có cơ hội học được con chữ vì sự đơn giản của nó) đất nước lại phải kháng chiến đòi độc lập,sức người, sức của tập trung vào đây,thế là chữ quốc ngữ mặc nhiên đi vào đời sống quốc gia với rất nhiều điều bất cập. Cũng chính vì vậy mà khi bắt đầu có thời gian nhìn lại chúng ta mới thấy nó chưa thật sự hoàn hảo. Bằng chứng là có rất nhiều đề nghị cải cách,cải cách cách viết, như thay một số chữ cái bằng chữ cái khác,bỏ bớt dấu ngã hoặc hỏi,viết liền các từ ghép,thậm chí viết chữ Việt không dấu. Tất cả không ngoài nỗ lực muốn làm cho chữ Việt phong phú hơn, nhưng cho đến hiện nay chữ Việt vẫn thế.Tại sao như vậy?.Phải chăng những đề nghị trên không hợp lý,hay chẳng ai quan tâm đến những đề nghị đó.
Không phải như vậy,những đề nghị trước đây về cải cách chữ Việt có không ít những ý kiến hay và hợp lý,đồng thời có rất nhiều người quan tâm,có thể chưa phải là những cơ quan có thẩm quyền về ngôn ngữ nhưng rõ ràng người ta đã bàn rất nhiều về những vấn đề mà nhiều người đưa ra như đã nêu trên,nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở chỗ tiếp tục bàn thôi. Bởi vì đã có ai đó trả lời "Cải cách làm gì? trong khi chữ Việt đang làm tròn nhiệm vụ của nó trên mọi lãnh vực, khoa học chính trị, văn hóa. Vậy cớ gì phải cải cách".
Đúng như vậy, nhưng đó chưa phải là câu trả lời hoàn toàn thỏa đáng. Nếu chúng ta xem chữ viết như là một phương tiện chuyên chở tư duy,mà ở đây tạm gọi là chiếc xe,thì nếu thay một vài bộ phận để làm cho chiếc xe ấy chạy êm hơn,tốc độ hơn,thậm chí an toàn hơn,sao ta không làm?.Tất nhiên những người có trách nhiệm điều khiển chiếc xe này cũng có những lí do của họ. Có thể như sau :
•1- Như tôi đã nói trên, chữ Việt - La Tinh đã đi vào lịch sử,đã trở thành quốc ngữ,đã là chữ viết của bao văn tự quốc gia. Hay nói khác hơn xe này đã và đang chở iếu nhân,vẫn chạy tốt,thôi cứ vậy mà chạy,dừng lại sửa chữa tốn kém,lở có chuyện gì ai chịu trách nhiệm.Vấn đề ở đây không còn là vấn đề chữ viết nữa mà là vấn đề lịch sử.
•2- Những đề nghị trên,tất nhiên là có những đề nghị hoàn toàn phù hợp về mặt chuyên môn,nhưng nó không phải là vấn đề không thể thay thế,nên không áp dụng(cải cách) cũng chẳng sao.
•3- Đất nước đang còn nhiều lãnh vực khác cần thay đổi,mà không cải cách ngôn ngữ cũng không sao,nên dành chuyện cải cách cho lãnh vực khác.Vì một lần cải cách là tốn kém.
Có thể với những suy nghĩ trên,nên tuy có nhiều đề nghị tâm huyết, nhưng cách viết chữ Việt vẫn thế,chẳng thay đổi gì.
Vẫn biết như thế, nhưng ở đây tôi cũng đề nghị cải cách chữ viết.Về mặt ngôn ngữ,trong từng lãnh vực riêng biệt,thì những đề nghị của tôi cũng không khác mấy so với những đề nghị của nhiều người trước đây.Tuy nhiên lí do của tôi thì có nhiều điều khác biệt như tôi trình bày sau đây:
1 - Bảng chữ cái của ta là những kí tự ghi lại những âm tố hình thành nên tiếng Việt.Trong những âm tố này chắc chắn rằng đa số đã được hình thành từ đời Hùng Vương. Ấy vậy mà giờ đây ta ghi lại,ta lại không ghi một cách đầy đủ. Hiện nay bảng chữ cái của chúng ta chỉ có 29 chữ, còn lại các chữ : Chờ, ngờ, nhờ, khờ, thờ, trờ, phờ không thuộc chữ cái.Tại sao vậy?.Tôi tạm gọi bảng chữ cái là gia đình âm tố tiếng Việt,gia đình này hiện nay theo thống kê thì gồm có 34 thành viên (theo tôi). Thế nhưng ta chỉ công nhận 29 thành viên là chính thức. Như tôi đã nêu trên đa số âm tố này đã có từ thời xa xưa,biết bao thế hệ đã sử dụng những âm thanh này để bàn bạc,bày tỏ,quyết định những những quyết sách của quốc gia,hay nói khác hơn, chúng là những đứa con của tổ quốc,vậy sao không chính thức công nhận là những đứa con ruột,được hưởng cái quyền lợi của một một đứa con, trong khi nghĩa vụ thì phải làm,mà lại xem chúng như những đứa con nuôi.
2 - Trong khi chúng ta không thừa nhận những đứa con này là những đứa con ruột,thì chúng ta lại dốc sức để nuôi những đứa con nuôi mà ta tưởng là con ruột,những đứa con tình cờ ghé vào gia đình âm tố tiếng Việt,thậm chí có ai nhận dạng chỉ ra thì bằng nhiều lí do cố bảo vệ.Trong 3 âm cờ (c,k,q) chắc chắn có 2 kẻ là con nuôi,tương tự như vậy trong các cặp ngh-ng,d-gi-gh-g.
3- Cùng một gia đình nhưng người thì họ này,kẻ họ khác,người thì họ Ê như vê tê vê, kẻ thì họ Ờ như Em mờ, Anh nờ,hay mấy kẻ bị cho đứng bên rìa Xê hát,Ca hát,Phê hát,còn có kẻ tới giờ cũng chưa có tên như Ngh. Hằng ngày xem truyền hình, cứ nghe các phát thanh viên đọc các chữ cái của tiếng Việt, người ta không biết cách đọc nào là chuẩn tiếng Việt.
4 - Có những iếu tố xuất phát từ một ngẫu hứng nhất thời của một ai đó,thế mà bắt cả bao người phải bỏ bao năng lượng để nhớ và duy trì,làm cho các vị trí thức phải lao tâm khổ tứ tìm mẹo này cách nọ giúp cho người bình thường cố mà nhớ,nếu không thì bảo viết không đúng tiếng Việt. Í tôi nói đến hỏi, ngã. Có phải hỏi, ngã là tiêu chí khu biệt để tạo nên ngữ nghĩa của tiếng nói không? Muốn biết điều này,cách hay nhất là ta hãy nói chuyện với những người Việt không biết chữ Việt,chắc chắn sẽ chẳng ai băn khoăn người nói nói chữ ấy hỏi hay ngã,họ hiểu hết,nhưng nếu chúng ta nói huyền thành nặng,sắc thành huyền,nhất định người nghe tức khắc phản ứng vì họ không hiểu. Như vậy rõ ràng giữa hỏi và ngã không có sự khu biệt làm nên nghĩa trong câu nói, chúng chỉ hiện diện trong chữ viết do ta quy định từ sự phát âm khác nhau đôi chút của vùng miền,mà điều này xảy ra chẳng phải riêng gì hỏi, ngã.Do đó không cần thiết phải bắt mọi người phải nhớ một điều không cần nhớ.Đó là chưa nói đến nay mai,nhiều người ngoại quốc tìm đến học tiếng của ta thì quả là khó,vì ngay cả người Việt còn gặp khó khăn nữa là người nước ngoài.Như vậy là ta tự làm khó ta chứ không ai khác.(Trong thời đại ngày nay,chắc chắn sớm muộn gì cũng sẽ có máy phiên dịch tiếng Việt,chừng ấy ta thấy sẽ không có lập trình riêng cho sự nhận diện âm thanh hỏi ngã của một từ, mà sẽ chỉ nhận diện âm thanh và tìm ngữ nghĩa dựa trên ngữ cảnh mà thôi).
5- Chữ Việt ngày nay,có thể nói về mặt mĩ thuật thì quả là có nhiều cái đẹp,với những dấu mũ,thanh làm cho dòng chữ như đường đi có thêm cây cối. Tuy nhiên nó cũng như đường đèo,rất đẹp như khó lái xe nhanh được,vì thường xuyên quẹo trái,quẹo phải. Nên chăng ta mở thêm một con đường khác,để cho đường đi ít khúc cua,cây cối hơn. Con đường này chính là chữ Việt không dấu.Nhìn sang nước Nhật,họ có đến bốn cách viết khác nhau vẫn tồn tại, tất nhiên là có quy định loại nào thì chữ viết chính thức, thế thôi.
Nếu ta nói "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia" thì Tiếng Việt chính là "Hồn thiêng của dân tộc" vì vậy việc kí âm lại tiếng nói ấy, dù bất cứ bằng loại chữ nào cũng đòi hỏi người Việt phải làm hết sức mình,sao cho trong thể xác ấy phải phản ánh đầy đủ cái linh hồn mà hồn thiêng sông núi đã hun đúc nên. Khi chưa có đầy đủ phương tiện và kiến thức thì có thể nhờ ai đó giúp sức,nhưng khi có đủ kiến thức rồi thì ta không thể ỷ lại vào ai khác,mà chính người Việt phải có trách nhiệm với tiếng nói của chính mình,có như thế mới không còn lời cảnh báo "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt".Vấn đề không còn là vấn đề chữ cái, mà nó là vấn đề tâm linh ngôn ngữ Việt. Ta sẽ phải trả lời sao trước tổ tiên khi trong gia đình ngữ âm tiếng Việt có những đứa con xa lạ lại được nuông chiều,trong khi đứa con mà bao thế hệ cưu mang thì trở thành kẻ giúp việc.Bảng chữ cái là nơi chứa đựng những âm thanh của thuở ban đầu qua những con chữ, mọi tâm tư,tình cảm,mọi văn bản trên mọi lãnh vực của cả dân tộc cũng xuất phát từ đây,do đó nếu ngay từ ban đầu đã có sự bất toàn như thế thì nhất định là điều cần phải quan tâm.Có thể văn hóa không đem lại những lợi ích thật tế tức thời, nhưng nó là cốt tủy của một dân tộc, một quốc gia.
Trong suy nghĩ đó tôi đề nghị ở đây một bảng chữ cái cùng cách viết theo cách nghĩ của tôi.Tôi nhận thức được rằng nếu đề nghị cải cách như nhiều người đề nghị mà tôi đã nêu trên,có nghĩa là thay một vài bộ phận của chiếc xe thì chắc cũng chỉ để bàn thôi.Vì vậy nên chăng ta làm một chiếc xe mới,cũng sử dụng động cơ ấy,vật liệu làm nên sườn xe thì ta dùng cũng những thứ sẵn có,thứ nào thấy không cần thì bỏ đi,thứ nào cần thiết thì sửa chữa rồi thêm vào,màu sắc thì thuần hai màu như nhà lợp ngói âm dương (ê,ờ), rồi cho chạy thử,ai thích thì sang xe mới chạy thử xem sao,người không thích thì cứ ngồi trên chiếc xe quen thuộc mà đi,như vậy khỏi phải làm cho các bác tài xế lo âu về trách nhiệm bảo trì .
Đây là một cách làm tuy có mới trong suy nghĩ, nhưng nhìn chung cũng là kế thừa của nhiều suy nghĩ khác chứ chẳng có gì của riêng tôi.Về cách làm thì theo chủ quan nên chắc chắn có nhiều thiếu sót,kính mong quý vị vui lòng lượng thứ, góp í.Người xưa nói rằng "Đường trâu đi lâu thành đại lộ",hay"Cuộc đời vốn không có đường,do người ta đi mãi nên thành đường." Vì vậy nếu được sự ủng hộ đông đảo của nhiều người thì ta sẽ có thêm một con đường để đi trong vấn đề con chữ ở nước ta. Cuối cùng tôi xin gởi í tưởng này, xem như là một sự chia sẽ đến với nhưng ai đã từng thao thức về việc cải cách chữ Việt ./.
Đà lạt 11/3/2009



Viên Như




Người theo dõi